Triệu chứng của Ung thư tiền liệt tuyến
Các biểu hiện lâm sàng
- Vào giai đoạn sớm: Những triệu chứng biểu hiện sự xâm lấn hoặc chèn ép gây cản trở đường dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài như tiểu khó, tiểu nhiều lần, tiểu không hết nước tiểu, tiểu ban đêm, đôi khi bí đái và đái máu.
- Sang giai đoạn lan tràn tại chỗ: Bí đái là triệu chứng thường gặp nhất, có thể kèm theo các triệu chứng khác như đái máu, nhiễm trùng tiết niệu thứ phát, u xâm lấn rộng gây chèn ép trực tràng hoặc cương đau dương vật.
- Ở giai đoạn muộn: Ngoài các triệu chứng tại chỗ, các triệu chứng di căn có thể biểu hiện rầm rộ hoặc âm thầm qua các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh nhờ gợi ý của tăng chất chỉ điểm u PSA. Di căn xương (đau xương, gãy xương bệnh lý...); các hội chứng về thần kinh do u di căn đốt sống gây chèn ép tủy sống (yếu liệt hai chi dưới, liệt nửa người...); muộn hơn có thể gặp di căn não, phổi, gan, dạ dày, tuyến thượng thận, ống tiêu húa; hội chứng thiếu máu, đông máu nội mạch rải rác.
Khám lâm sàng bệnh
Việc thăm trực tràng bằng tay là động tác đơn giản nhưng có giá trị chẩn đoán cao. Với việc thăm trực tràng có thể phát hiện thấy khối u, đánh giá tuyến tiền liệt về mật độ, kích thước, mức độ xâm lấn xung quanh, đặc điểm của rãnh giữa, tình trạng của thành trực tràng, sự hẹp lòng trực tràng.
Cận lâm sàng
- Định lượng PSA: PSA là kháng nguyên đặc hiệu tổ chức tuy nhiên nó không phải là kháng nguyên đặc hiệu chẩn đoán UTTTL. PSA có thể tăng trong các trường hợp viêm tiền liệt tuyến, phì đại tiền liệt tuyến lành tính, các thủ thuật can thiệp đến tiền liệt tuyến như sinh thiết chẩn đoán hoặc phẫu thuật cắt u qua đường niệu đạo. Giá trị PSA bình thường < 4ng/mL. Độ nhạy của xét nghiệm này trong chẩn đoán UTTTL khoảng 80%, độ đặc hiệu từ 15 - 20%. Hiện tại PSA được ứng dụng như một test sàng lọc khi kết hợp với thăm khám trực tràng bằng tay, đồng thời có giá trị trong việc đánh giá kết quả điều trị và theo dõi sau điều trị.
- Siêu âm nội trực tràng: Được áp dụng trong quan sát tiền liệt tyến từ những năm 80 của thế kỷ XX. Phương pháp này có giá trị chẩn đoán chính xác hơn so với thăm trực tràng, có vai trò quan trọng đánh giá giai đoạn và hướng dẫn sinh thiết khối u qua thành trực tràng một cách chính xác. Gần đây siêu âm Doppler nội trực tràng được áp dụng cho phép đánh giá rõ hơn sự lan tràn của khối u và các mạch máu lân cận.
- Chụp cắt lớp vi tính (CT): Chụp cắt lớp vùng tiểu khung có giá trị xác định mức độ xâm lấn xung quanh của khối u, di căn hạch chậu, tuy nhiên với những trường hợp tổn thương có các yếu tố thuận lợi hoặc PSA nhỏ hơn 10 ng/ml thì chụp cắt lớp là không cần thiết vì khả năng tìm thấy hạch chậu rất thấp.
- Chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI): Có giá trị đánh giá mức độ xâm lấn của khối u vào tổ chức xung quanh và hạch vùng, với kỹ thuật MRI nội trực tràng cho phép đánh giá kích thước u chính xác hơn.
- Chụp PET (Positron Emission Tomography): Là phương pháp chẩn đoán hình ảnh sử dụng các chất gắn đồng vị phóng xạ và mới được đưa vào áp dụng tại một số trung tâm lớn, tuy nhiên theo nhiều nghiên cứu mới đây PET có vai trò hạn chế trong chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến.
- Sinh thiết: Sinh thiết kim đường tầng sinh môn hoặc qua thành trực tràng có hoặc không có hướng dẫn của siêu âm có giá trị chẩn đoán mô bệnh học chính xác. Sinh thiết tất cả các điểm nghi ngờ khi nhìn thấy hoặc sờ thấy trên lâm sàng, ngoài ra cần sinh thiết ít nhất 6-12 vị trí khác nhau ở tiền liệt tuyến để có chẩn đoán chính xác.
- Xạ hình xương: Đánh giá tình trạng di căn xương chính xác hơn chụp X quang thông thường.
Ngoài ra còn có một số xét nghiệm khác đánh giá tình trạng lan tràn của bệnh như siêu âm ổ bụng, X quang phổi, đánh giá chức năng gan, thận, hệ tạo huyết.
Chẩn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt UTTLT với bệnh phỡ đại lành tính tiền liệt tuyến, sỏi, nang tiền liệt tuyến, lao tiền liệt tuyến, viêm tuyến tiền liệt.
Chữa trị bệnh ung thư tiền liệt tuyến
Việc lựa chọn liệu pháp điều trị thích hợp phải dựa vào mức độ xâm lấn của u, độ mô học, mức độ PSA máu, tuổi và thể trạng chung của người bệnh, tác dụng phụ liên quan của phương pháp điều trị ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Đối với người bệnh dưới 60 tuổi giai đoạn T1a có thể không điều trị chỉ cần theo dõi chặt chẽ. Những trường hợp còn lại ở giai đoạn cũ khu trú tại tiền liệt tuyến (T1b,1c, 2), phẫu thuật cắt tiền liệt tuyến triệt để và xạ trị liều cao có hiệu quả như nhau. Theo dõi đơn thuần có thể áp dụng cho các trường hợp độ mô bệnh học thấp, u khu trú tại tuyến tiền liệt.
Vào giai đoạn III, bệnh thường được điều trị bằng xạ trị. Người bệnh tuổi cao, tình trạng sức khỏe chung không được tốt có thể không cần áp dụng phương pháp điều trị gỡ do tiến triển tự nhiên của bệnh thường chậm.
Người bệnh giai đoạn muộn đã có di căn thường được điều trị ban đầu bằng nội tiết có thể kèm theo hoặc không kèm theo xạ trị. Các trường hợp di căn nhưng chưa có triệu chứng lâm sàng có thể chờ tới khi có triệu chứng lâm sàng mới tiến hành điều trị. Hiệu quả tác dụng của thuốc không phụ thuộc vào khoảng thời gian chờ đợi này.
Phòng chống ung thư tuyến tiền liệt như thế nào?
- Chịu khó tập thể dục và vận động vài giờ mỗi tuần có thể phòng tránh béo phì và giúp cơ thể ngăn ngừa bệnh tật.
- “Làm tình” đều đặn để giúp giảm nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt.
- Thường xuyên khám sức khỏe hàng năm và không được bỏ sót xét nghiệm PSA để kiểm tra tình trạng sức khỏe hiện tại và có thể phát hiện ra bệnh ở những giai đoạn sớm.
- Có thể sử dụng một số chế phẩm bổ sung như selen có thể làm giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Trước khi dựng bất kỳ chế phẩm bổ sung hay phác đồ thuốc, phải hỏi ý kiến bác sĩ.
Bên cạnh đó, một số thực phẩm có tác dụng phòng ngừa hiệu quả chứng bệnh này như rượu vang đỏ, trà xanh hoặc đậu nành. Trong thành phần của rượu vang đỏ có chứa chất chống oxy hóa resvaratrol cao có khả năng ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư tuyến tiền liệt, nhưng nam giới chỉ nên uống một hai ly rượu vang mỗi ngày.
Nguồn: DieuTriUngThu.com